TƯỞNG NIỆM GIÁC LINH TÔN SƯ






TƯỞNG NIỆM GIÁC LINH TÔN SƯ
(Viết vào lúc trước khi di quan)
Kính bạch Giác linh Hòa thượng Tôn sư!
Đây là những giây phút cuối cùng mà chúng con được quì trước kim quan và linh đài của Thầy, lát nữa thôi, chúng con sẽ phải đưa tiễn nhục thân của Thầy về với đất mẹ.
Than ôi!
Nhục thân Thầy còn đó, chúng con vẫn còn đây, mà sao cách biệt trùng trùng. Dẫu biết sanh tử vô kỳ, nhưng chúng con chưa thể nào đủ tâm lý để chấp nhận một sự thật rằng: Thầy đã mãi mãi rời xa chúng con thật rồi.
Thầy ơi, trên liên đài Thầy có thấu cho tâm trạng đớn đau của chúng con vào lúc này. Mới đó thôi, chúng con còn nhận được Pháp âm của Thầy, được nhìn thấy tôn dung của Thầy, mà giờ đây trên những đôi đầu trẻ dại, mảnh khăn tang ghi dấu sự mất mát to lớn nhất của cuộc đời chúng con – đó là mất đi bậc ân sư khả kính! Chúng con hằng ao ước Thầy vẫn còn ở lại lâu dài nơi thế gian để dìu dắt chúng con trên bước đường tu học, để nhìn thấy chúng con từng bước trưởng thành, để nâng đỡ vực dậy sau những lúc chúng con vấp ngã, sẻ chia và vui vầy bên chúng con trong tình đạo vị Thầy trò. Thế nhưng tất cả những ao ước ấy giờ đã trở thành nỗi lụy sầu cho hàng đệ tử chúng con. Dù trong chúng con, có người đã lớn, có người còn bé, nhưng bên Thầy, chúng con hãy còn thơ dại bé bỏng lắm, vẫn cần bóng mát để chở che và nương tựa, Thầy đi rồi, cuộc đời chúng con quá bơ vơ, nào biết sẽ nương tựa vào đâu!
Đời chúng con, trước lúc xuất gia, cũng giống như kẻ đi trong đêm tối, mịt mờ trôi nổi theo tập khí vô minh không biết ngày thoát khỏi, nhưng từ khi được xuất gia với Thầy, được Thầy trao cho giới thân huệ mạng, chúng con được thân tướng của bậc xuất gia, rõ biết phương pháp thoát khỏi ba nẻo sáu đường. Tuy vậy, dù được Thầy khai hóa nhiệt thành trong bổn phận của bậc Đạo sư, nhưng tập khí lâu đời quá sâu nặng, nên trong cuộc sống hằng ngày, chúng con đã mắc nhiều sai lầm, không biết bao lần đã làm cho Thầy phải phiền lụy, đã làm cho vầng trán Thầy thêm nếp nhăn bởi lo lắng cho chúng con. Nhưng tất cả lỗi lầm của chúng con đã được Thầy, với tấm lòng của vị cha, tâm từ bi của bậc xuất sỹ, tha thứ tất cả. Giờ đây, chúng con hối hận lắm, ngưỡng mong Giác linh Thầy tha thứ cho sự non dại cho chúng con thêm lần nữa.
Kính lạy Giác linh Thầy!
Cuộc đời Thầy, dù không dạy chúng con qua bài kinh hay bổn luận, mà bằng thân giáo và khẩu giáo hằng ngày của bậc nghiêm tịnh giới luật. Mỗi lời của Thầy ban cho chúng con, dù đó là lời trách mắng hay hòa dịu, giờ chúng con mới hiểu được rằng, đó đều là những pháp ngữ quí giá, vì chúng xuất phát từ sự lịch nghiệm, từ trí tuệ cao vời của Thầy. Mỗi lời của Thầy, khi đi vào tâm khảm của chúng con, chúng đều như dòng suối mát rửa sạch lỗi lầm, như sóng thủy triều cuốn phăn những cáu bẩn trong tâm của chúng con. Không những Thầy khai hóa tâm hoang vu của chúng con, mà còn chăm lo cho chúng con từng miếng ăn, giấc ngủ. Chúng con vẫn nhớ, có những đêm một số huynh đệ ngủ không treo mùng thì Thầy không gọi dậy mà lặng lẽ treo mùng, đắp chăn cho; đến bữa ăn, trừ những lúc Thầy bận việc Phật sự hay bệnh tật, Thầy đều cùng ăn với đệ tử mà không ăn riêng tại phương trượng, bởi Thầy muốn gặp đầy đủ chúng con mỗi ngày và cũng là có dịp thuận tiện giảng dạy cho toàn thể chúng con những điều mà Thầy đã thấy chúng con sai lầm. Những khi huynh đệ nào bệnh tật thì Thầy đều hỏi han, căn dặn huynh đệ khác đi mua thuốc hay sữa về dùng cho mau khỏi bệnh. Hay trên bước đường tu, có những chướng duyên nào đó mà có những huynh đệ từ bỏ đời sống xuất gia để trở về đời sống của người ngoại hộ Tam bảo, Thầy cũng gọi riêng lên để chia sẻ tâm sự, lắng nghe tâm tư nhằm an ủi, bảo ban, tháo gỡ để vực dậy chí xuất trần cho vị ấy; dầu vậy, vì nhân duyên làm người xuất gia không còn nên Thầy cũng không cách nào níu kéo được, nhưng Thầy vẫn ân cần dạy bảo cách hành xử khi trở về đời sống thế tục, dù không ở chùa cũng vẫn phải làm người đệ tử tại gia chân chánh.
Thầy đặc biệt chú trọng đến sự nghiệp giáo dục, nên luôn luôn nhắc nhở và khuyến khích chúng con chuyên tâm học hành. Thầy thường bảo rằng, mình học nội điển cho thông suốt thì mới thấy rõ con đường tu hành, từ đó mới củng cố thêm vững chắc chí nguyện xuất trần; nhưng muốn độ sanh thì cần phải có phương tiện mới có thể đối cơ, do vậy phải học cả kiến thức của thế gian, mình biết nhiều nhưng nhờ hiểu rõ Phật pháp thì cái biết đó không phải sở tri chướng mà trở thành diệu dụng mỗi khi đối cơ tiếp vật.
Hạnh nguyện độ sanh của Thầy thật quá to lớn, dù có Phật sự xa hay gần, Thầy cũng không nề hà, cũng ngự đến những nơi cần sự có mặt của Thầy. Đó là Thầy đã thiết thực dạy cho chúng con thực hành hạnh Phổ Hiền và Quán Âm rồi vậy!
Thầy ơi, hơn 80 năm Thầy hiện hữu nơi cõi trần, dù đã trải qua biết bao thăng trầm vinh nhục, âu đó cũng là chướng duyên thử thách chí kiên cố của bậc Thượng sỹ, và Thầy đã vượt qua tất cả, mọi gian lao không làm Thầy nhụt chí, mọi trở ngại không ngăn nổi bước chân hùng dũng của con sư tử để đến những nơi đang khao khát pháp vị cam lồ.
Thầy ơi, làm sao chúng con có thể kể hết những công hạnh của Thầy, ngôn ngữ hạn hẹp của chúng con làm sao kể hết ân tình của Thầy dành cho chúng con, và làm sao bày tỏ hết tấm lòng của chúng con đối với Thầy. Bàn tay và sức lực nhỏ bé của chúng con làm sao có thể thắng được cơn vô thường để níu kéo Thầy về lại với chúng con. Từ đây chúng con vĩnh viễn mất Thầy rồi!!!
Giờ này, trong phút tiễn biệt, chim xa cành, trò xa thầy, chúng con không sao ngăn được dòng nước mắt đau thương, dẫu biết rằng, như thế là trái với lời dạy phải tự tại trước cơn vô thường của thầy. Chúng con xin hứa sẽ nỗ lực tu tập, thành tựu đạo nghiệp để không phụ tấm lòng thương tưởng và nâng đỡ của Thầy, sẽ cùng nhau đoàn kết nối tiếp sự nghiệp độ sanh mà Thầy đã để lại.
Xin đất mẹ thay chúng con lưu giữ và bảo tháp thay chúng con che chở nắng mưa cho nhục thân của Thầy. Toàn thể chúng con – những đệ tử thơ dại của Thầy, xin thành kính đảnh lễ Giác linh Thầy một lần sau rốt.
Than ôi!
Thầy đi một buổi sớm mai.
Pháp thân bất hoại, dấu hài còn ghi.
Chúng con bốn chúng hồ quì.
Tiễn Thầy lần cuối, biệt ly lệ sầu.
Dáng Thầy nay biết tìm đâu?
Lời Thầy xin nguyện khắc sâu trọn đời.
Thành kính bái biệt Thầy!
Nam-mô Từ Lâm tế chánh tôn, tứ thập ngũ thế, Thiên Đức đường thượng, húy thượng Quảng hạ Phước, hiệu Quán Hạnh, tự Thiện Nhơn, Hòa thượng Bổn sư Tân viên tịch Giác linh thùy từ chứng giám. 
Đệ tử của Thầy
Nhuận Thịnh
Thành kính tưởng niệm




TIỂU SỬ HT TÔN SƯ





 TIỂU SỬ
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG
Thượng THIỆN Hạ NHƠN

1. THÂN THẾ:
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn thế danh Hồ Thanh Tùng, sinh năm Tân Mùi (1931) tại thôn Tân Hòa, xã Cát Trinh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thân phụ là Cụ ông Hồ Ngộ, Pháp danh Như Đạo và Thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Sáu, Pháp danh Diệu Tùng, trong gia đình có sáu người con, Ngài là người con thứ ba. Gia đình Ngài có nhiều đời truyền thống thâm tín Tam Bảo. Hai vị Bào đệ và Bào muội từng xuất gia và thành tựu đạo nghiệp rất đáng kể, đó là Thầy Bửu Thanh và Ni sư Quảng Trí.
2. XUẤT GIA HỌC ĐẠO:
Từ nhỏ, Ngài đã sớm có duyên lành với đạo Phật, Ngài thường xuyên theo cha mẹ đến chùa lạy Phật. Với bẩm chất thông minh, Ngài đã đậu bằng Primaire.
Chủng tử Phật pháp trong Ngài sớm nảy nở nên năm 12 tuổi (1942), học đạo với thiền sư Tâm Minh là Tổ khai sơn chùa Thiên Sanh (thường gọi là chùa Hang) ở Phù Mỹ. Sau đó, theo học với Ngài Quảng Đức tại chùa Tịnh An - Phù Cát.
Năm 1944, cơ duyên phùng ngộ Hòa thượng Thích Giác Tánh là trụ trì chùa Hưng Long – An Nhơn. Vì cảm phục đạo phong của Hòa thượng Giác Tánh, Ngài cùng với Hòa thượng Thiện Duyên đầu sư xuất gia, được ban pháp danh là Quảng Phước.
Năm 1950, Ngài thọ giới Sa Di tại chùa Hưng Long – An Nhơn.
3. HÀNH ĐẠO:
Từ năm 1948 - 1954, Ngài làm Thư ký Phật giáo cứu quốc Liên Khu 5.
Năm 1954, sau khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, dưới sự khuyến khích của Hòa thượng Bổn sư, Ngài cùng đoàn Học Tăng tại Phật Học Đường Hưng Long, Bình Định 12 vị gồm Quý Hòa thượng: Thích Đồng Thiện, Thích Thiện Duyên, Thích Đổng Minh, Thích Đổng Quán, Thích Tâm Hiện, Thích Đồng Từ, Thích Nguyên Trạch, Thích Từ Hạnh, Thích Liễu Không, Thích Tâm Lâm, Thích Đổng Tánh… vào Khánh Hòa tòng học chuyên khoa Kinh, Luật, Luận tại Tăng Học Đường Nam Phần Trung Việt-Nha Trang (tiền thân của Phật Học Viện Trung phần-Nha Trang).
Năm 1957, cùng rất đông Pháp lữ đồng môn, Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho phép đăng đàn thọ giới Cụ túc tại Đại giới đàn Hộ Quốc ở Nha Trang, do Trưởng Lão HT Thích Giác Nhiên làm Đường đầu, được Bổn sư ban Pháp tự là Thiện Nhơn, Pháp hiệu là Quán Hạnh.
Năm 1958, Ngài tốt nghiệp chương trình Cao Đẳng Phật học từ Phật Học Đường Trung phần, được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bổ nhiệm làm Giảng sư khắp các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên. Cũng trong giai đoạn này, Ngài được mời kiêm nhiệm Chánh Hội Trưởng Hội Phật học Quảng Ngãi trong 2 năm.
Năm 1964-1975, GHPGVNTN thỉnh cử Ngài làm Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo tỉnh GiaLai – KonTum. Trong giai đoạn này, Ngài thành lập và làm Giám đốc các trường Bồ Đề tại Pleiku.
Năm 1966-1967, Ngài gia nhập Nha Tuyên úy Phật giáo, và được bổ nhiệm làm Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo QĐVNCH Vùng II Chiến Thuật, bao gồm các quân, binh chủng ở Cao Nguyên và Duyên hải Trung phần để hỗ trợ và hướng dẫn tâm linh cho quân nhân Phật tử và siêu độ cho binh sĩ tử nạn.
Trong những năm 1964-1975, tuy rất bận rộn với bao công tác hoằng pháp và trọng trách hành chánh điều hành nhiều cấp GH, nhưng Ngài cũng thực thi tâm huyết quảng độ quần sanh, nên đã khai sơn, tạo dựng và đại trùng tu rất nhiều cơ sở tầm vóc cho Đạo pháp, như chùa Hồng Từ (Kontum), chùa Đạo Quang (Sài-gòn), chùa Pháp Hải (Quy Nhơn), chùa Hoa Nghiêm (Phù Cát).
Năm 1982, sau 6 năm bị an trí, lao động, Ngài trở về phụ tá Hòa thượng Bổn sư Giác Tánh trong trách nhiệm dạy dỗ Kinh Luật cho Tăng chúng và quản trị mọi Phật sự tại Tổ đình Thiên Đức.
Năm 1987, sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Ngài đã tiếp nhận Tổ nghiệp trong trọng trách “Truyền Đăng Tục Diệm”. Do đó, ngoài việc cùng Chư tôn Giáo phẩm, Chư tôn Thượng tọa trong bản tỉnh thực hiện các Phật sự tại tỉnh nhà, như: Tăng sự, giáo dục, đào tạo Tăng tài, hướng dẫn Phật tử… Mặc dù Phật sự Giáo hội đa đoan nhưng Ngài vẫn luôn luôn ấp ủ hoài bão đại trùng tu ngôi Phạm vũ Thiên Đức, vì sau thời gian chiến tranh ngôi bảo tự đã sụp nát hoàn toàn năm 1965, được HT Tôn sư tái thiết lại một phần năm 1973-1976.
Tháng 5 năm Kỷ Mão (1999), Ngài cùng môn phái quyết định khởi công đại trùng tu ngôi bảo tự Thiên Đức. Sau thời gian tái thiết gần 10 năm, công trình đại trùng tu đã hoàn thành. Vào ngày 06 tháng 9 năm 2007, Ngài tổ chức Đại lễ Khánh thành ngôi Phạm vũ Tổ đình Thiên Đức.
Ngoài sự thành tựu của ngôi Phạm vũ, Ngài vẫn thường xuyên lưu tâm đến việc đào tạo Tăng tài, tiếp Tăng độ chúng. Tổ đình Thiên Đức, dưới sự lãnh đạo và dìu dắt của Ngài, đệ tử xuất gia có hơn 100 vị, làm chỗ quy ngưỡng tâm linh cho Thập phương, phát huy tầm ảnh hưởng của Phật giáo lên mọi tầng lớp xã hội, góp phần duy trì nền văn hóa và đời sống tâm linh truyền thống của Dân tộc mà ngàn năm tiền nhân đã vun đắp nuôi dưỡng.
 * Phật sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN).
Năm 1991, Ngài đứng ra tích cực vận động thành lập trường Cơ Bản Phật Học Nguyên Thiều.
Nhiệm kỳ 1992-1997, Ngài làm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Bình Định, Chánh đại diện Phật giáo huyện Tuy Phước.
Nhiệm kỳ 1997-2002, Ngài được suy cử vào Ủy viên HĐTS/ GHPGVN, Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Bình Định, Chánh đại diện Phật giáo huyện Tuy Phước.
Năm 2002, Ngài được bầu làm Ủy viên UBMTTQVN tỉnh Bình Định.
Nhiệm kỳ 2002-2007, Ngài được suy cử vào thành viên HĐCM, ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
Nhiệm kỳ 2007-2012, Ngài tiếp tục được suy cử vào thành viên HĐCM, ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
Nhiệm kỳ 2012-2017, Ngài được suy cử vào Ủy viên Thường trực HĐCM, Ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
* Chức sự trong các Đại giới đàn:
Năm 1994, Ngài làm Giáo thọ A-xà-lê Đại giới đàn Phước Huệ, do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
Năm 2000, Ngài làm Trưởng Ban Kiến Đàn và làm Yết-ma A-xà-lê tại Đại giới đàn Chánh Nhơn, do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
Năm 2003, Ngài làm Yết-ma A-xà-lê tại giới đàn Ananda-Giác Tánh tại Tu viện Vạn Hạnh, Úc.
Năm 2004, Ngài làm Trưởng Ban Kiến Đàn và Yết-ma A-xà-lê Đại giới đàn Huệ Chiếu do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
Năm 2004, Ngài làm Yết ma A-xà-lê tại giới đàn Lâm Tế, Tu viện Lộc Uyển, Cali, Hoa Kỳ.
Năm 2009, Ngài làm Trưởng Ban Kiến Đàn và Yết Ma A Xà Lê Đại giới đàn Giác Tánh do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
4. VIÊN TỊCH:
Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Ngài không từ nan bất cứ Phật sự nào, bất cứ sự cần cầu nào. Trong chuyến đi chứng minh cho lễ Khai giảng khóa đầu tiên của trường Trung cấp Phật học tại Pleiku, Ngài bị đột quỵ nhẹ. Giáo hội, môn đồ pháp quyến cùng các y bác sĩ bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định, bệnh viện Chợ Rẫy – TP HCM tận tình chữa trị, sau đó Ngài đã bình phục gần như hoàn toàn. Nhưng vì nhân duyên hóa độ đã mãn, trọng trách kế thừa Tổ nghiệp đã thành, huyễn thân giả tạm như cỗ xe trải qua thời gian cũng đến thời tan rã, Ngài xả bỏ báo thân, an nhiên thị tịch vào lúc 06h30 ngày 20 tháng 4 năm 2013 (nhằm 11/3/Quý Tỵ).
Trụ thế 83 năm, 55 Hạ lạp.
Suốt cuộc đời Ngài từ lúc xuất gia cho đến ngày viên tịch, Ngài đã không ngừng phụng sự đạo pháp, hóa độ chúng sanh. Với trách nhiệm “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, kế thừa Tổ nghiệp, Ngài khơi đèn tuệ giác cho hàng ngàn Môn đồ Tứ chúng; trong hàng đệ tử xuất gia, nhiều vị đã tốt nghiệp từ Cử nhân cho đến Tiến sĩ Phật học, nhiều vị đã trụ trì, giữ nhiều trọng trách Phật sự trong và ngoài nước. Ngài cũng có công lớn trong việc khai sơn, tái thiết, trùng tu các ngôi chùa như: Hồng Từ, Đạo Quang, Pháp Hải, Hoa Nghiêm, Thiên Sanh, Thiên Bửu, Phước Điền…, đặc biệt là công trình đại trùng tu Tổ đình Thiên Đức. Với cuộc đời thanh tu, đạo cao đức trọng, xứng đáng là bậc Tòng Lâm Thạch Trụ, là cây đại thụ che mát cho môn đồ tứ chúng khắp nơi. Tinh thần hy hiến, phụng sự của Ngài vẫn còn mãi với Đạo pháp, Pháp âm của Ngài vẫn còn tồn tại mãi trong lòng Tứ chúng. Sự ra đi của Ngài vào cõi Niết Bàn bất sinh, bất diệt, đã để lại niềm tiếc thương vô hạn với Môn đồ, Pháp phái, Chư tôn Thiền đức Tăng Ni, Thiện tín Phật tử xa gần và Chính quyền các cấp.
NAM MÔ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, SẮC TỨ THIÊN ĐỨC ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY Thượng QUẢNG Hạ PHƯỚC, Hiệu QUÁN HẠNH, Tự THIỆN NHƠN, TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG TÂN VIÊN TỊCH GIÁC LINH, THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.
(Môn đồ Pháp quyến cung soạn)

TƯỞNG NIỆM TÔN SƯ






NAM-MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP NGŨ THẾ, THIÊN ĐỨC ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY thượng QUẢNG hạ PHƯỚC, HIỆU QUÁN HẠNH, TỰ THIỆN NHƠN - HÒA THƯỢNG BỔN SƯ TÂN VIÊN TỊCH CHI GIÁC LINH 
(Ôn viên tịch vào lúc 6 giờ 30 phút, ngày 11 tháng 03 năm Quí Tỵ, nhằm ngày 20 tháng 04 năm 2013)